Trang thông tin điện tử - Cơ quan chủ quản: Viện Kinh tế Xây dựng - Bộ Xây dựng
Tìm kiếm nâng cao
  • Những câu hỏi thường gặp về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP)

    08/12/2017 - 08:32
    1891
    0
    0
    Ở Việt Nam, đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) đã được nghiên cứu và áp dụng trong những năm vừa qua nhưng trên thực tế khi thực hiện đầu tư theo hình thức PPP gặp rất nhiều vướng mắc, khó khăn do thiếu kinh nghiệm, thiếu các kiến thức cơ bản cũng như các quy định pháp lý hướng dẫn đầy đủ và cụ thể cho hình thức đầu tư mới này. Để giúp cho độc giả hiểu rõ hơn những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư, tạo điều kiện thực hiện thành công các dự án đầu tư theo hình thức PPP, tác giả đã tập hợp và biên soạn 10 câu hỏi thường gặp khi thực hiện các dự án PPP tại Việt Nam theo các nội dung được chuẩn bị trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kĩ thuật “Quản lý quỹ hỗ trợ PPP ở VN (P3SF)” do DFID tài trợ và Bộ KH & ĐT quản lý.
     
    Câu hỏi 1: Mô hình đối tác công – tư (PPP) là gì? Ai là đối tác trong các dự án PPP?
    Theo Luật Đầu tư công năm 2014 thì “Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) là đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp các dịch vụ công”.
    PPP là viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Public – Private – Partnership”. Theo đó, trong dự án PPP có 2 đối tác chính là “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” và “nhà đầu tư tư nhân”. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền gồm các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Nhà đầu tư tư nhân gồm nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Ngoài 2 đối tác chính, trong dự án PPP có thể có sự tham gia của các đối tác khác thông qua hợp đồng của nhà đầu tư như các tổ chức tài chính (bên cho vay), các nhà phân phối sản phẩm dịch vụ của dự án,….
     
    Do vậy, PPP có đặc điểm Nhà nước nhượng quyền cho nhà đầu tư tư nhân xây dựng công trình kết cấu hạ tầng đối với các dịch vụ công thuộc trách nhiệm của Nhà nước; PPP có thể được thực hiện theo nhiều loại hợp đồng khác nhau như: Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (BOT), Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (BTO), Xây dựng – Chuyển giao (BT), Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (BOO), Xây dựng – Chuyển giao – Thuê dịch vụ (BTL), Xây dựng – Thuê dịch vụ – Chuyển giao (BLT), Kinh doanh – Quản lý (O&M) và các loại hợp đồng tương tự khác; Nhà nước quản lý sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án; các rủi ro của dự án được phân bổ theo hợp đồng dự án cho bên có khả năng quản lý rủi ro tốt nhất;….
     
    Câu hỏi 2: Lợi ích của đầu tư theo hình thức PPP là gì? Và tại sao Việt Nam lại phải xem xét áp dụng nó?
    So với hình thức đầu tư truyền thống do Nhà nước thực hiện thì đầu tư theo hình thức PPP, một dự án PPP thành công sẽ mang lại những lợi ích chính như sau:
    – Thu hút được nguồn lực từ khu vực tư nhân, giảm gánh nặng tài chính cho Nhà nước trong đầu tư kết cấu hạ tầng cũng như dịch vụ công, là lĩnh vực đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn;
    – Do tận dụng được ưu thế, kiến thức và kinh nghiệm của các nhà đầu tư tư nhân nên các dự án đầu tư theo hình thức PPP thường cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tốt, chất lượng cao cho xã hội.
    – Ngoài việc cung ứng vốn cho dự án, nhà đầu tư còn chuyển giao các phát minh, công nghệ mới, kỹ năng quản trị tiên tiến. Điều này rất quan trọng đối với giai đoạn khai thác các tài sản trực tiếp và thứ cấp của dự án.
    – Nhà đầu tư phải xác định và đảm bảo tiến độ của dự án trong giới hạn tài chính cho phép phù hợp với thời hạn đã thỏa thuận Hợp đồng, đáp ứng yêu cầu khai thác sử dụng dự án của Nhà nước;
     
    – Nhà đầu tư phải tối ưu hoá và gắn kết chặt chẽ ngay từ thiết kế, thi công  xây dựng công trình với việc vận hành, quản lý và khai thác đảm bảo hiệu quả cao nhất.
    – Phân bổ rủi ro một cách có hiệu quả nhất. Dự án PPP khác biệt so với các loại dự án khác là việc phân chia trách nhiệm quản lý rủi ro cho bên nào có khả năng quản lý rủi ro tốt nhất, điều này làm giảm chi phí, tăng hiệu quả tổng thể của dự án mang lại lợi nhuận kỳ vọng.
    – Góp phần thúc đẩy hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư cạnh tranh, minh bạch và hấp dẫn.
     
    Cũng như các nền kinh tế mới nổi khác, Việt Nam cũng nỗ lực nghiên cứu và áp dụng mô hình PPP như một giải pháp quan trọng nhằm phục vụ cho như cầu phát triển hạ tầng rất lớn của mình là do các lợi ích của hình thức đầu tư này mang lại như đã nêu trên. Trong đó, quan trọng nhất có thể kể đến là PPP được coi là một biện pháp để doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân chia sẻ với Nhà nước gánh nặng tài chính, giảm sức ép cho nguồn ngân sách nhà nước vốn đang bị chia sẻ cho rất nhiều những ưu tiên khác ngoài nhu cầu phát triển hạ tầng; PPP cũng đem lại cho xã hội một dự án có chi phí tốt nhất, thời gian thực hiện ngắn nhất với chất lượng đầu ra sản phẩm của dự án, chất lượng dịch vụ nâng cao và dự án đạt được hiệu quá cao nhất.
     
    Câu hỏi 3: Những nhà đầu tư nào quan tâm đến dự án PPP?
    Theo khái niệm về PPP thì các nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp các dịch vụ công nên các nhà đầu tư thường là những tổ chức, cá nhân có thế mạnh trong việc xây dựng, phát triển hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ công. Ở Việt Nam hiện nay cũng như các nước mới bắt đầu thực hiện PPP thì các doanh nghiệp có tiềm lực về vốn, công nghệ, kỹ thuật  xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật sẽ là đối tượng tham gia đầu tiên, sau đó các công ty dịch vụ sẽ tham gia (ví dụ như các công ty cấp nước, vận hành cảng,…).
     
    Khi thị trường PPP phát triển, các doanh nghiệp sẽ tái cơ cấu để có thể tham gia vào các dự án PPP, thông qua việc liên doanh, liên kết với các công ty cung cấp dịch vụ chuyên ngành để đấu thầu các dự án. Ở một số nước có thị trường PPP phát triển ở trình độ cao, các nhà đầu tư có thể là những nhà đầu tư chuyên nghiệp như là các quỹ đầu tư có nguồn vốn tài chính dồi dào, có kinh nghiệm phát triển dự án và có mối quan hệ gần gũi với các nhà thầu thi công xây dựng cũng như các nhà cung cấp. Các nhà đầu tư này đóng vai trò là người tổ chức thực hiện dự án. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp, đặc biệt là các quỹ đầu tư rất quan tâm tới các dự án PPP vì họ có thể có được một khoản lợi nhuận ổn định trong vài chục năm. Các công ty nước ngoài với bề dày kinh nghiệm đối với các dự án PPP thường giữ vai trò rất quan trọng trong việc mang lại kỹ năng, chuyên môn và công nghệ vào thị trường trong nước trong những năm đầu sơ khai.
     
    Câu hỏi 4: Những tổ chức tài chính nào quan tâm đến dự án PPP? Các dự án PPP được cấp tài chính như thế nào?
    Đối với các dự án PPP thường có vòng đời dự án kéo dài, cần khoản vốn đầu tư lớn dẫn đến các khoản vay ngân hàng phải lớn và có thời gian đáo hạn kéo dài. Do vậy, khi phải huy động vốn vay cho dự án PPP, các ngân hàng, tổ chức tài chính sẽ tự mình hoặc kết hợp lại để cùng cho vay. Đối với Việt Nam, trong những năm đầu thực hiện PPP, việc huy động vốn là một khó khăn vì các nhà đầu tư và ngân hàng trong nước không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu. Lúc này, vai trò của các ngân hàng phát triển đa phương như Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB) là rất lớn, họ có thể tài trợ cho các dự án PPP theo hình thức trực tiếp hoặc qua hình thức cấp bảo lãnh. Tuy nhiên, đối với phần vốn của nhà nước tham gia dự án PPP trong các khoản vay này phải được cân đối với trần nợ công và được phê duyệt trong kế hoạch đầu tư công.
     
    Thông thường tài chính của một dự án PPP được cung cấp bởi ba nguồn cơ bản là từ nhà đầu tư (thông qua việc bỏ vốn chủ sở hữu vào trong doanh nghiệp dự án), từ bên cho vay (thông qua việc bỏ vốn vào dự án) và từ nhà nước (thông qua việc cấp kinh phí cho việc chuẩn bị dự án, chi phí xây dựng các hợp phần phụ trợ hoặc giải phóng mặt bằng). Đối với vốn chủ sở hữu do nhà đầu tư góp vốn điều lệ vào doanh nghiệp dự án chiếm khoảng 10-15% tổng vốn đầu tư của dự án; vốn vay do bên cho vay cung cấp theo thoả thuận vay được ký với nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp dự án có thể lên đến 70-80%; vốn do nhà nước cung cấp chi trả cho những phần chuẩn bị dự án, giải phóng mặt bằng,… nhằm đảm bảo tính khả thi tài chính cho dự án. Hiện nay tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thiết lập Quỹ Phát triển dự án (PDF) để giúp trang trải chi phí thuê tư vấn trong quá trình chuẩn bị dự án, các chi phí này sẽ được nhà đầu tư trúng thầu hoàn trả.
     
    Câu hỏi 5: Dự án nào phù hợp với mô hình PPP?
    Các dự án PPP phải có “sức hấp dẫn” nhất định tức là dự án có khả năng mang lại lợi nhuận cho đối tác tư nhân thì nhà đầu tư tư nhân mới đầu tư cho dự án, yếu tố “lợi nhuận” đối với nhà đầu tư tư nhân đơn thuần là sự thu hồi vốn đầu tư mà họ bỏ ra (có tính tới những rủi ro đi kèm) và lợi ích tiềm năng mà dự án mang lại cho nhà đầu tư. Trong Luật Đầu tư công cũng đã quy định ưu tiên thực hiện dự án theo hình thức PPP đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn nhưng để quyết định đầu tư dự án theo hình thức PPP có thể dựa vào một số điều kiện sau đây:
    – Do đặc điểm của dự án PPP là Nhà nước nhượng quyền cho tư nhân đầu tư xây dựng, quản lý và vận hành nên các dự án nào cho phép tư nhân có thể tham gia từ thiết kế, cung cấp, xây dựng đến vận hành, bảo trì hạ tầng sẽ phù hợp với hình thức PPP;
    – Các dự án quy mô lớn có khả năng thu hút các nhà đầu tư (đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài) và dự án có vòng đời dài thường thích hợp hơn với hình thức PPP. Tuy nhiên, cũng không loại trừ các dự án quy mô nhỏ và vòng đời ngắn, tùy thuộc tính chất và khả năng sinh lợi của dự án;
    – Những dự án có tính chất phức tạp, đòi hỏi công nghệ mới và trình độ quản lý cao thì áp dụng mô hình PPP sẽ phát huy được tính sáng tạo cho khu vực tư nhân và mang lại cơ hội đổi mới cho khu vực này;
    – Ngoài ra, các dự án có khả năng tạo ra các nguồn doanh thu khác (khai thác tiềm năng thương mại) cũng là điều kiện phù hợp để áp dụng hình thức PPP.
     
    Câu hỏi 6: PPP có thể thực hiện theo các loại hợp đồng dự án nào? Thời hạn hợp đồng một dự án PPP nên kéo dài bao lâu?
    PPP có thể thực hiện theo nhiều loại hợp đồng cụ thể khác nhau như trong quy định của Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Tuỳ vào đặc điểm, quy mô, tính chất của từng dự án cũng như nhu cầu, năng lực của Nhà nước, của nhà đầu tư có thể áp dụng các loại hợp đồng sau: Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (BOT), Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (BTO), Xây dựng – Chuyển giao (BT), Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (BOO), Xây dựng – Chuyển giao – Thuê dịch vụ (BTL), Xây dựng – Thuê dịch vụ – Chuyển giao (BLT), Kinh doanh – Quản lý (O&M) và các loại hợp đồng tương tự khác.
     
    Thời hạn của hợp đồng phụ thuộc vào loại hợp đồng và nhiều yếu tố khác có liên quan nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là thời gian để hoàn lại chi phí phát triển dự án. Một số loại hợp đồng thì thời hạn hợp đồng chính là vòng đời dự án, khi đó thời hạn của hợp đồng được xác định trên cơ sở phân tích về kỹ thuật, tài chính của dự án và sự thay đổi về nhu cầu sử dụng dịch vụ hoặc hạ tầng trong tương lai. Ngoài ra, vòng đời của dự án PPP còn phụ thuộc vào đặc tính công trình, đặc điểm dịch vụ công do dự án cung cấp nghĩa là do các yếu tố kỹ thuật quyết định. Ví dụ, các dự án PPP trong lĩnh vực năng lượng, giao thông sẽ có thời gian rất dài có thể kéo dài trên 20 năm, cá biệt có thể lên tới 30 năm; các dự án PPP trong lĩnh vực công nghệ thông tin khi công nghệ thay đổi nhanh chóng thì vòng đời sẽ ngắn hơn.
     
    Câu hỏi 7: Tại sao phân bổ rủi ro lại quan trọng đối với một dự án PPP?
    Có thể nói, phân chia rủi ro hợp lý, hiệu quả là một công việc quan trọng nhất để thực hiện thành công dự án PPP. Trong quá trình phát triển một dự án hạ tầng cung cấp dịch vụ công thì rủi ro có thể đến từ yếu tố: điều kiện tự nhiên, kỹ thuật, tài chính hoặc  pháp lý,.…, và có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn thực hiện dự án từ thiết kế, cung cấp thiết bị, thi công xây dựng, quản lý vận hành dự án,… Do vậy, việc phân bổ rủi ro đòi hỏi phải được dự báo, phân tích và xác định chính xác nhất trong bảng thống kê rủi ro của mỗi dự án PPP.
     
    Nguyên tắc chung trong việc phân chia rủi ro là các rủi ro của dự án được phân bổ theo hợp đồng dự án cho bên quản lý rủi ro tốt nhất. Các bên khi được phân chia trách nhiệm một rủi ro cụ thể thì họ sẽ có động lực để giải quyết rủi ro này một cách tốt nhất, giảm thiểu hậu quả mà rủi ro đó mang lại. Các rủi ro được chuyển giao giữa các bên đều kèm theo chi phí, nếu như Nhà nước phân bổ rủi ro cho bên tư nhân thì bên tư nhân có thể đòi hỏi phải thanh toán thêm để có thể gánh chịu rủi ro. Bởi vậy, việc phân bổ rủi ro chỉ diễn ra khi mà động lực mà nó tạo ra giá trị hơn nhiều so với chi phí bổ sung để quản lý rủi ro đó. Có một vài loại rủi ro có thể được quản lý tốt bởi cả hai bên nhưng thường được phân bổ cho tư nhân vì họ là bên có tiềm năng lực tốt hơn trong quản lý rủi ro. Tuy nhiên, khi phân chia các loại rủi ro xuất phát từ phía Nhà nước như rủi ro về chính sách, quy hoạch,… cũng cần phải cân nhắc vì nếu để khu vực tư nhân quản lý các loại rủi ro này sẽ dẫn đến tăng tổng mức, tăng phần vốn hỗ trợ của Nhà nước và dẫn đến tăng phí sử dụng dịch vụ, một số loại hình dịch vụ thì Nhà nước lại bù lỗ trong quá trình khai thác sử dụng.
     
    Các rủi ro nếu được phân bổ một cách tối ưu nhất ngay từ giai đoạn lập dự án, nó có thể làm giảm tổng mức đầu tư do chi phí rủi ro dự án giảm và khi chi phí dự án thấp nhất thì dự án sẽ được thực hiện hiệu quả và bền vững.
     
    Câu hỏi 8: Những yếu tố nào để đảm bảo dự án PPP thành công?
    Để một dự án PPP thành công phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố từ chính sách vĩ mô, các yếu tố về phát triển khoa học kỹ thuật, về cơ chế,… nhưng theo kinh nghiệm các nước đã phát triển PPP thì các yếu tố sau đây sẽ mang tính quyết định:
    – “Tối ưu hoá vòng đời dự án”: Tối ưu hoá vòng đời dự án được hiểu là việc phát triển dự án có tính tới tất cả các yếu tố liên quan đến dự án và chi phí cho toàn bộ quá trình thực hiện dự án từ chuẩn bị đầu tư cho đến dự án hoàn vốn. Đây là cách tiếp cận khác biệt so với mô hình đầu tư dự án thông thường. Đối với mô hình đầu tư truyền thống, tổng mức đầu tư được tính đến giai đoạn bàn giao đưa vào sử dụng, khi vận hành thì cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp quản lý, vận hành bằng chi phí thường xuyên. Với dự án PPP, nhà đầu tư phải cân bằng các chi phí trong cả vòng đời dự án, kết nối giữa chi phí và lợi nhuận mang lại từ dự án.
    – “Thời hạn hợp đồng dự án PPP tối ưu”: Thời hạn của hợp đồng dự án hợp lý sẽ xác định được điểm hoà vốn tối ưu, xác định nguồn hỗ trợ hoặc thanh toán của Nhà nước tiết kiệm nhất, ước tính doanh thu từ người sử dụng hoặc các nguồn thu khác của dự án. Thời hạn hợp đồng dự án do các bên thoả thuận phù hợp với lĩnh vực đầu tư, quy mô, tính chất và loại hợp đồng dự án.
    – “Quản lý đầu ra của dự án”: Trong các dự án PPP, Nhà nước sẽ chú trọng quản lý các yếu tố đầu ra của dự án hơn là các yếu tố đầu vào. Đối với mô hình đầu tư truyền thống thường chi phí đầu vào (như nguyên, nhiên, vật liệu, công nghệ, máy móc thiết bị, nhân công,…) được quan tâm do muốn giảm chi phí xây dựng công trình dự án nhưng khi khai thác cung cấp dịch vụ công lại không được quan tâm đúng mức nên chất lượng dịch vụ không cao. Ngược lại đối với mô hình đầu tư PPP, các yếu tố đầu ra như chất lượng, giá cả, phương thức cung cấp dịch vụ được quan tâm nên người sử dụng sẽ được cung cấp các dịch vụ công với chất lượng tốt nhất, giá cả hợp lý theo mục tiêu đặt ra của Chính phủ.
    – “Phân bổ rủi ro hợp lý”: Rủi ro được phân bổ trong hợp đồng dự án cho bên có khả năng quản lý rủi ro tốt nhất, cơ chế phân chia trách nhiệm quản lý rủi ro có hiệu quả nhất là đặc điểm quan trọng và là lợi ích của mô hình đầu tư PPP. Nhà nước và tư nhân sẽ đàm phán và thống nhất phân chia trách nhiệm cũng như chi phí cho các rủi ro của dự án sẽ tăng hiệu quả tổng thể của dự án.
     
    Câu hỏi 9: Quy trình thực hiện một dự án PPP tiến hành như thế nào?
    Tại Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, để thực hiện một dự án PPP phải thực hiện theo các bước chính sau đây:
    – Lựa chọn dự án và lập đề xuất dự án. Dự án PPP có thể được đề xuất bởi Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp hạ tầng hoặc dịch vụ công, gồm các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương. Nhà đầu tư cũng có thể đề xuất dự án. Đề xuất dự án đã được quyết định đầu tư theo hình thức PPP thì thông tin về dự án sẽ được công bố công khai.
    – Lập Báo cáo nghiên cứu khả thi. Trong Báo cáo nghiên cứu khả thi gồm mô hình đầu tư cụ thể và các yêu cầu về pháp lý, kỹ thuật, tài chính để đảm bảo dự án có thể thực hiện được. Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất và được phê duyệt thì Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao nhà đầu tư lập Báo cáo nghiên cứu khả thi.
    – Lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án. Trên cơ sở Báo cáo nghiên cứu khả thi, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập hồ sơ mời thầu để lựa chọn nhà đầu tư. Việc lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi hoặc chỉ định thầu theo quy định của Luật Đấu thầu.
    – Đàm phán, ký kết hợp đồng dự án. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức đàm phán hợp đồng dự án với nhà đầu tư được lựa chọn. Sau khi kết thúc đàm phán cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết thoả thuận đầu tư. Khi dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp dự án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng dự án với nhà đầu tư.
    – Nhà đầu tư thực hiện hợp đồng dự án. Nhà đầu tư triển khai dự án theo đúng các thoả thuận trong hợp đồng dự án. Trong quá trình thực hiện, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án sẽ tự quyết định việc lựa chọn các nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, hàng hoá, xây lắp,… cho dự án và có trách nhiệm về chất lượng công trình, dịch vụ của dự án. Nhà nước giám sát toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng dự án của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.
    – Chuyển giao công trình dự án. Đối với các hợp đồng có quy định về việc chuyển giao công trình dự án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư thoả thuận về các điều kiện, thủ tục chuyển giao trong hợp đồng dự án phù hợp với hướng dẫn của pháp luật hiện hành.
    – Chấm dứt hợp đồng dự án. Khi hợp đồng dự án đã hết hiệu lực các bên phải hoàn tất thủ tục thanh lý hợp đồng theo quy định của nhà nước về pháp luật hợp đồng.
     
    Câu hỏi 10: Khung pháp lý hiện hành áp dụng đối với mô hình PPP đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn chưa?
    Thời gian qua, cơ chế chính sách thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật đã và đang từng bước hình thành, hoàn thiện.  
    Cho tới nay, việc phát triển mô hình đầu tư PPP đã có những bước tiến mới, phát triển cơ sở hạ tầng được nhận định là một trong các bước đột phá thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Để đáp ứng nhu cầu bức thiết này, Việt Nam đã hoàn thiện hơn khung thể chế về đầu tư theo hình thức PPP, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành liên quan đến việc đẩy mạnh đầu tư theo hình thức PPP, như: Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Đầu tư công năm 2014. Chính phủ ban hành 02 Nghị định hướng dẫn cho lĩnh vực PPP là Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 Về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (thay thế Nghị định số 108/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2011/NĐ-CP và Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg) và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Các văn bản mới này có một số quy định đã được bổ sung, hoàn thiện nhiều nội dung so với các văn bản quy phạm liên quan trước đây, đã tạo tiền đề quan trọng để áp dụng rộng rãi và có hiệu quả hình thức đầu tư PPP ở nước ta.
     
    Tác giả: CN. PHẠM NGỌC THUỶ 

    VIỆN KINH TẾ XÂY DỰNG

    Bình luận