Trang thông tin điện tử - Cơ quan chủ quản: Viện Kinh tế Xây dựng - Bộ Xây dựng
Tìm kiếm nâng cao
  • Trả lời bạn đọc

    Ban quản lý dự án xây dựng huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau ký hợp đồng gói thầu san lấp mặt bằng theo hình thức đơn giá điều chỉnh. Tuy nhiên, khi triển khai thi công thì hiện trạng vị trí thi công có sự thay đổi so với thiết kế được duyệt vậy :

    - Khi các đơn vị liên quan đã xác định sự thay đổi khối lượng thi công, Ban quản lý dự án có được phép không làm công tác phê duyệt và vẫn thanh toán cho nhà thầu không?

    - Nếu khối lượng thanh toán thực tế tăng so với khối lượng nêu trong hợp đồng và các bên chỉ lập phụ lục hợp đồng có được không? Trường hợp này Kho bạc lại đề nghị phải có quyết định phê duyệt dự toán phát sinh thì có đúng quy định không?

    - Nhà thầu vi phạm hợp đồng, Ban Quản lý dự án đã xử phạt nhà thầu theo quy định trong hợp đồng và số tiền phạt hợp đồng được chuyển vào tài khoản do Ban Quản lý dự án mở. Vậy, số tiền phạt sẽ được xử lý như thế nào? Đơn vị ra quyết định xử phạt có được nhận một phần số tiền xử phạt đó không?

    Trả lời
    Nguyễn Duy An - duyan@yahoo.com - 12/07/2018

    Theo quy định tại khoản 5 Điều 18 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng: Đối với hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh, việc thanh toán được thực hiện trên cơ sở khối lượng thực tế hoàn thành được nghiệm thu và đơn giá trong hợp đồng hoặc đơn giá đã điều chỉnh do trượt giá theo đúng các thỏa thuận trong hợp đồng.

    Đối với trường hợp trong thư bạn hỏi: do hiện trạng vị trí thi công có sự thay đổi so với thiết kế được duyệt thì cần phải làm rõ xem sự thay đổi này có dẫn đến thay đổi thiết kế không và thay đổi đến mức độ nào? Nếu làm thay đổi thiết kế cơ sở thì phải xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm và báo cáo Người quyết định đầu tư xem xét, quyết định; nếu không làm thay đổi thiết kế cơ sở thì không phải làm thủ tục thanh toán như đối với trường hợp phát sinh khối lượng ngoài hợp đồng.

    Khi nhà thầu vi phạm các điều khoản của hợp đồng thì Ban quản lý dự án xử phạt nhà thầu theo quy định của hợp đồng. Số tiền xử phạt này được nộp vào Ngân sách nhà nước và đơn vị ra quyết định xử phạt không được hưởng phần trăm số tiền xử phạt này.

    Do yêu cầu về tiến độ, chủ đầu tư ký Hợp đồng nguyên tắc với nhà thầu thi công để triển khai xây dựng công trình. Tại thời điểm này chưa có kế hoạch đấu thầu (KHĐT) và hồ sơ mời thầu (HSMT), thiết kế và dự toán công trình cũng chưa được phê duyệt. Trong Hợp đồng nguyên tắc có nêu trị giá làm cơ sở cho  việc  thương thảo hợp đồng. Xin được hỏi cách làm như vậy có vi  phạm pháp luật về dấu thầu không? 

    Trả lời
    Nguyen Van Nam - nam@gmail.com - 12/07/2018

    Hợp đồng là sản phẩm cuối cùng đối với bất kỳ cuộc lựa chọn nhà thầu nào dù thông qua đấu thầu (rộng rãi hay hạn chế) hoặc qua chỉ định thầu. Có thể minh họa nội dưng này qua định nghĩa về quá trình lựa chọn nhà thầu nêu tại Điều 4 Luật đấu thầu như sau: Trình tự thực hiện đấu thầu gồm các bước chuẩn bị đầu thầu, tổ chức đấu thầu. đành giá hồ sơ dự thầu (HSDT), thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu, thông báo kết quả đấu thầu, thương thảo, hoàn thiện hợp đồng và ký hợp đồng". Theo quy trình lựa chọn nhà thầu nêu trong Luật cũng như trong Nghị định 85/NĐ-CP, đối với 7 hình thức lựa chọn nhà thầu (quy định từ Điều 18 đến Điều 24) thì chỉ   Có hình thức tự thực hiện là không có hợp đồng. Liên quan tới hợp đồng trong Luật đấu thầu còn có quy định về:  
    - Nguyên tắc xây dựng hợp đồng (trong đó có lưu ý các thành viên trong liên danh phải ký hợp đồng khi nhà thầu liên danh được lựa chọn).
    - Các nội dung cửa hợp đồng (trong đó có giá hợp đồng). 
    - Hình thức hợp đồng gồm hình thức trọn gói, hình thức theo đơn giá, hình thức theo thời gian, hình thức theo tỉ lệ % và hình thức hỗn hợp. 
    - Bảo đảm thực hiện Hợp đồng (không áp dụng đối với hợp đồng dịch vụ tư vấn.)   - Điều chính hợp đồng. 
    - Thanh toán hợp đồng. 
    - Giám sát thực hiện, nghiệm thu thanh lý hợp đồng. 
    Như vậy, trong Luật dấu thầu không quy định, không đề cập về Hợp đồng nguyên tắc như trường hợp này nêu ra. Để có hợp đồng được ký giữa chủ đầu tư và nhà thầu thì phải thực hiện theo trình tự: 
    + Chủ đầu tư/bên mời thầu nêu yêu cầu cho gói thầu (thông qua HSMT hoặc hồ sơ yêu cầu (HSYC) tùy hình thức lựa chọn nhà thầu dược áp dụng). 
    + Nhà thầu (độc lập hoặc liên danh) sau khi nghiên cứu các yêu cầu của gói thầu, nộp lại giải pháp thực hiện bao gồm cả chi phí (thông qua HSDT hoặc hồ sơ đề xuất). 
    + Chủ đầu tư/bên mời thầu đánh giá thẩm điịnh Phê duyệt và công bố nhà thầu được lựa chọn. 
    + Hai bên thương thảo. hoàn thiện hợp đồng để ký kết hợp đồng. 
    Bây giờ trở lại tình huống này thấy rằng: 
    1. Do “hợp đồng nguyên tắc” không quy định trong  Luật đấu thầu nên việc ký  hợp đồng này giữa hai bên là không thuộc sự chi phối của Luật mà do sự thỏa thuận giữa hai bên (miễn là không bao gồm những nội dung trái quy đinh của pháp luật dẫn đến hợp đồng là vô hiệu). Trong trường hợp này, chủ đầu tư với thẩm quyền của mình chịu trách nhiệm với các nội dung ký kết trong “Hợp đồng nguyên tắc” 
    2. “Hợp đồng nguyên tắc” trong trường hợp của người hỏi được hình thành khỉ chưa có thiết kế và dự toán công trình dược duyệt, chưa có HSMT dược hình thành thì giá hợp đồng trong “Hợp đồng nguyên tắc” sẽ không có căn cứ thiếu cơ sở. Theo thông tin thì giá trong “Hợp đồng nguyên tắc”  lại là cơ sở cho việc thương thảo hợp đồng. Điều này gây ra sự khó hiểu do: 
    - Thiếu căn cứ pháp lý đã có thể thương thảo hợp đồng (thuật ngữ chính xác trong đấu thầu là “thương thảo, hoàn thiện Hợp đồng” với nhà thầu đã ký “Hợp đồng nguyên tắc”. Vả lại, qua thương thảo, hoàn thiện hợp  đồng làm thay đổi giá hợp đồng trong “Hợp đồng nguyên tắc”  do trong “Hợp đồng nguyên tắc”  không đủ nội dung, căn cứ định lượng thì giá trong Hợp đồng nguyên tắc trở nên không có ý nghĩa. 
    - Việc thương thảo. hoàn thiện hợp đồng là khâu cuối cùng của việc lựa chọn nhà thầu. Trường hợp sau khi ký “Hợp đồng nguyên tắc” tiến hành tố chức đấu thầu thì “Hợp đồng nguyên tắc” trong trường hợp của người hỏi sẽ là vô nghĩa vì chắc gì nhà thầu ký “Hợp đồng nguyên tắc” sẽ trúng thầu. Chỉ khi áp dụng hình thức chỉ định thầu cho nhà thầu ký “Hợp đồng nguyên tắc”  thì hợp đồng nguyên tắc mới có giá trị sử dụng. Bản thân nhóm từ nguyên tắc đã nói lên nội dung của hợp đồng là chung chung, thể hiện mong muốn của hai bên là chính, do vậy trong hợp đồng này không nên bao gồm các nội dung định lượng như giá hợp đồng. 
    Trong thực tế đã có những hợp đồng nguyên  tắc làm tiền đề ký hợp  đồng chính thức (sau khi có kết quả lựa chọn nhà thầu) nhằm giảm thiểu thời gian. Ví dụ trong “Hợp đồng nguyên tắc”  Làm tiền đề cho chỉ định thầu có thể ghi: “Nhà thầu thực hiện trước một số công việc để kíp đáp ứng nhu cầu về tiến độ của dự án, nhưng các chi phí sẽ được thanh toán khi hợp đồng chính thức được ký và căn cứ dự toán được duyệt theo  quy định " Theo cách làm này nhà thầu ký “Hợp đồng nguyên tắc”  đôi khi phải chấp nhận những rủi ro có thể xảy ra trong trường hợp hợp đồng chính thức không ký dược. 
    Tóm lại “Hợp đồng nguyên tắc”  không có tính Pháp lý ràng buộc chặt chẽ giữa các bên mà chỉ thể hiện mong muốn, thiện chí của mỗi bên. khác vê bản chất so với hợp đồng chính thức. Nói chung, không nên lạm dụng ký “Hợp đồng nguyên tắc”  vì ý nghĩa hạn chế của nó. trừ một vài trường hợp đặc biệt.   

    (Nguồn Báo Đấu thầu số 251, ngày 17/12/2013)

    Đơn vị chúng tôi được UBND tỉnh Lâm Đồng giao nhiệm vụ làm chủ đầu tư dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Hiện nay đơn vị chúng tôi ký hợp đồng với nhà thầu thi công thực hiện gói thầu xây dựng công trình đường giao thông các nhánh thuộc dự án này. Căn cứ theo các quy định hiện hành của Nhà nước về đầu tư xây dựng công trình nguồn vốn Ngân sách Nhà nước để thực hiện. Trong đó:

    - Tiến độ thi công theo hợp đồng được ký kết là 8 tháng.

    - Hình thức hợp đồng: Hợp đồng theo đơn giá cố định.

    Trong thực hiện hợp đồng có phát sinh vướng mắc như sau:

    - Về tiến độ: Hết thời gian thực hiện hợp đồng nhưng công trình chưa hoàn thành do vướng mặt bằng.

    - Về xử lý kỹ thuật: Một đoạn đường giao thông gặp đá cứng không thi công được bằng máy đào, nhà thầu thi công và tư vấn giám sát đề xuất xử lý nâng cao độ đường đó phù hợp để không phải phá đá nhằm tiết kiệm chi phí và đẩy nhanh tiến độ.

    Kính nhờ Bộ Xây dựng trả lời giúp như sau:

    1. Chủ đầu tư có được quyền ký gia hạn kéo dài thời gian hoàn thành công trình này với nhà thầu thi công thêm 03 tháng mà không vượt tiến độ của dự án không?

    2. Chủ đầu tư được quyền phê duyệt hồ sơ xử lý kỹ thuật điều chỉnh công trình này không? (Hồ sơ thiết kế kỹ thuật của công trình do chủ đầu tư phê duyệt)

    3. Chủ đầu tư có thẩm quyền phê duyệt dự toán phát sinh các khối lượng công việc phát sinh do xử lý kỹ thuật để làm cơ sở thương thảo ký phụ lục hợp đồng không? (Dự toán công trình do chủ đầu tư phê duyệt)
     

    (Nguồn http://www.xaydung.gov.vn, ngày 17/1/2014)

    Trả lời
    Võ Văn Hậu - haukcnphuhoi@gmail.com - 12/07/2018

    Sau khi xem xét, Vụ Kinh tế xây dựng có ý kiến như sau:

    Việc điều chỉnh giá hợp đồng, điều chỉnh tiến độ hợp đồng thực hiện theo quy định tại Điều 36, 38 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng và các điều khoản đã ký trong hợp đồng. Đối với hợp đồng theo đơn giá cố định thì khi giá nhiên liệu, vật tư, thiết bị do Nhà nước áp dụng biện pháp bình ổn giá theo quy định của Pháp lệnh giá có biến động bất thường hoặc khi Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp đồng thì được điều chỉnh đơn giá nếu được phép của cấp quyết định đầu tư và các bên có thỏa thuận trong hợp đồng. Do vậy với trường hợp trong thư bạn hỏi: Khi việc bàn giao mặt bằng không bố trí đủ vốn, không đúng với các thỏa thuận trong hợp đồng, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng xây dựng mà không do lỗi của nhà thầu gây ra thì được phép điều chỉnh tiến độ thực hiện hợp đồng. Khi nguyên nhân của chủ đầu tư dẫn đến công việc theo hợp đồng bị dở dang, máy móc thiết bị vật tư của nhà thầu bị ứ đọng hoặc chủ đầu tư chậm thanh toán thì phải bồi thường cho nhà thầu.

    Chúng tôi có một gói thầu Xây lắp đã chọn được nhà Thầu trúng thầu ký hợp đồng theo hình thức đơn giá. Hiện tại chúng tôi đang tiến hành quyết toán và xảy ra tình huống sau: khi kiểm tra hồ sơ quyết toán, cơ quan thẩm tra  quyết toán phát hiện giá trị ứng với khối lượng công việc quyết toán căn cứ hồ sơ hoàn công là cao hơn (hoặc nhỏ hơn) giá trị trúng thầu. Do vậy, cơ quan thẩm  tra quyết toán lấy giá trị thực tế theo hồ sơ hoàn công  làm giá trị quyết toán.

    Vậy đúng hay sai?   

    Trả lời
    Nguyen Van Nam - nam@gmail.com - 12/07/2018

    Trong hoạt động đấu thầu có nhiều loại giá mang ý nghĩa khác nhau và loại giá tiếp theo thường thay thế cho giá tính thành trước. Chẳng hạn. 
     - Giá gói thầu được duyệt trong kế hoạch đấu thầu đối với gói thầu xây lắp sẽ được  thay thế bởi dự toán  duyệt sau đó Khi đã có quyết định trúng thầu (đảm bảo giá trúng thầu ≤  giá gói thầu thì giá gói thầu không còn ý nghĩa. Giá đề nghị trúng thầu do tổ chuyên gia hoặc bên mời thầu đề nghị trong báo cáo   đánh giá hồ sơ dự thầu (phải  đảm bảo không vượt giá gói thầu) sau khi được tổ thẩm định thống nhất và được chủ đầu tư phê duyệt kết quả trúng thầu, thì giá trúng thầu sẽ thay thế cho giá đề nghị trúng thầu. 
    -  Giá hợp đồng trong hợp đồng được ký sau khi thương thảo, hoàn thiện hợp đồng giữa bên mời thầu và nhà thầu sẽ thay thế cho giá trúng thầu, giá hợp đồng trở thành căn cứ cho việc thanh toán hợp đồng. Về nguyên tắc xây dựng hợp đồng, khoản 3 Điều 46 Luật đấu thầu quy định giá hợp đồng không được vượt giá  trúng thầu. Trường hợp trong quá trình thương thảo, hoàn thiện hợp đồng thấy cần thiết bổ sung khối lượng công việc hợp lý ngoài phạm vi công việc trong hồ sơ mời thầu vượt giá trúng thầu việc xử lý phái tuân thủ theo khoản 9 Điều 70 Nghị định số 85/2009/NĐ-CP. 
    - Trong một số trường hợp giá hợp đồng trong hợp đồng đã ký chỉ là giả định (ví dụ đối với gói thầu xây lắp áp dụng hình thức hợp đồng theo đơn giá như trường hợp nêu trên) vì khối lượng, số lượng công việc thực tế chưa xác định  được chính xác tại lúc ký hợp đồng. Việc thanh quyết toán căn cứ vào giá trị ứng với khối lượng thực tế thực hiện theo đúng thiết kế, được các bên liên quan ký xác nhận (chủ đầu tư tư vấn giám sát và nhà thầu.) 
    Giá quyết toán là con số cuối cùng thay cho toàn bộ các loại giá nêu trên, nó có thể cao hơn (hoặc thấp hơn giá trúng thầu trong quá khứ là chuyện hết sức bình thường (thường xảy ra đối với gói thầu xây lắp áp dụng hình thức hợp đồng theo đơn giá). Trong nhiều trường hợp đối với gói thầu  mua thiết bị, vật tư thì giá quyết toán thường trùng với giá hợp đồng, trùng với giá trúng thầu. 
    Trở lại tình huống đã nêu  thì quyết định của cơ quan thẩm tra quyết toán là hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, khối lượng công việc theo hồ sơ hoàn công được các bên xác nhận sẽ là cơ sở để xác định giá trị thanh, quyết toán đối với hợp đồng theo hình thức đơn giá. Nội dung này được quy định chi tiết tại Điều 49 và khoản 1 Điều 53 Nghị định số 85/2009/NĐ-CP.

    TS. Nguyễn Việt Hùng   

    (Nguồn Báo Đấu thầu số 75 ngày 15/4/2014)

    Chúng tôi có gói thầu EPC: Thiết kế, mua sắm, chế tạo và thi công lắp đặt thực hiện theo Luật đấu thầu. Trong số các nhà thầu tham dự có một nhà thầu là Tổng công ty tham gia với tư cách là nhà thầu độc lập trong đó Tổng công ty giữ vai trò thực hiện phần công việc mua sắm trang  thiết bị cho gói thầu EPC, các nhà thầu phụ khác là các công ty con của Tổng công ty thực hiện từng phần công việc như nêu trong HSDT, cụ thể:  
    + Công ty con A: thực hiện công việc thiết kế.  
    + Công ty con B: thực hiện công việc chế tạo.  
    + Công ty con C: thực hiện công việc thi công lắp  các công ty con của Tổng công ty được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.  Giả sử HSDT của Tổng công ty đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cửa HSMT và được chủ đầu tư chọn là nhà thầu trúng thầu Để thuận tiện trong công tác phối hợp quản lý thực hiện hợp đồng căn cứ vào yêu  cầu kỹ thuật của gói thầu,  Tổng công ty dự kiến ký hợp đồng với chủ đầu tư theo một trong hai trường hợp sau: 
    Trường hợp l: Tổng công ty sẽ ký hợp đồng với chủ đầu tư cam kết thực hiện toàn bộ gói thầu trong đó nêu rõ phần Tổng công ty chịu trách nhiệm là mua sắm trang thiết bị cho gói    thầu các phần công việc còn  lại (thiết kế, chế tạo và thi công lắp đặt) sẽ do công ty con C đứng ra làm đầu mối ký hợp đống trực hấp với Tổng công ty và sau đó ký tiếp các hợp đồng thầu phụ với các công ty con A và C.  
    Trường hợp 2: Tổng công ty sẽ đề xuất chủ đầu tư xem xét cho phép công ty con C đứng ra ký hợp đồng với Chủ đầu tư  do phân công việc của công ty C chiếm tỉ trọng lớn trong việc thực hiện hợp đồng) cam kết thực hiện toàn bộ phạm vi công việc của gói  thầu thay cho Tổng công ty. Sau đó công ty con C sẽ ký lại hợp đồng thầu phụ với Tổng công ty và các công ty con A và B theo phạm vi công việc đã nêu trong HSDT. 
    Vậy xin hỏi trong trường hợp Tổng công ty trúng thầu và ký hợp đồng theo một trong hai trường hợp trên thì có đáp ứng dược các quy định của Luật đấu thầu không? 

    Trả lời
    Nguyen Van Nam - nam@gmail.com - 12/07/2018

    Trước khi đi vào câu trả lời cho câu hỏi nêu trên, chúng ta còn trao đổi lần lượt một số nội dung, cụ thể như sau: 
    1 Một số vấn đề chung: Theo các quy định về đấu thầu việc ký hợp đồng sau khi có Quyết định trúng thầu cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
     a) Hợp đồng là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu được lựa chọn trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên nhưng phải phù hợp với   Quyết định phê duyệt kết  qủa lựa chọn nhà thầu (Khoản 31) Điều 4 Luật đấu Thầu)
     b) Hợp đồng được ký kết phải căn cứ Quyết định phê duyệt và văn bản thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu (điểm b Khoản 1 Điều 54 Luật Đấu thầu).  
    c) Văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu  phải bao gồm một số nội dung, trong đó có nội dung "Tên nhà thầu trúng thầu” (điểm a Khoản 2 Điều 40 Luật đấu thầu). Qua các quy định trên thấy rằng:  Nhà thầu trúng thầu khi ký hợp đồng với chủ đầu tư thì phải theo đúng tư cách tham gia như nêu trong HSDT đã nộp phù hợp với Quyết định trúng thầu. Chủ đầu tư chỉ ký hợp đồng với nhà thầu chính (dù là nhà thầu độc lập hoặc nhà thầu liên danh). Các nhà thầu phụ bao gồm cả các nhà thầu không phải là thành viên trong liên danh, không chịu trách nhiệm tham gia đấu thầu thì có thể ký hợp đồng hoặc thỏa thuận với nhà thầu chính (Khoản 17 Điều 4 Luật đấu thầu) 
    2. Về tình huống nêu ra: 
    Đối với trường hợp 1 Theo các thông tin thì Tổng công ty tham gia đấu thầu với tư cách là nhà thầu độc lập nên sau khi được trúng thầu, Tổng công ty ký hợp đồng với chủ đầu tư là phù hợp với các quy định hiện hành. Danh sách các nhà thầu phụ (bao gồm công ty con A, B và C) đã được nhà thầu chính (Tổng công ty) đăng ký  trong HSDT (theo mẫu yêu  cầu kê khai về nhà thầu phụ như trong HSMT) và với các nội dung về phạm vi, khối lượng công việc và giá trị tương ứng của từng nhà thầu phụ. Việc này là cần thiết để đảm bảo tính khả thi trong đánh giá HSDT và cũng là cơ sở cho chủ đầu tư giám sát việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu nhằm đạt được các yêu cầu của gói thầu    Việc đăng  ký nhà thầu phụ còn có một ý nghĩa quan trọng khác. Theo quy định tại Khoản 14 Điều 12 Luật đấu thầu và dược cụ thể hóa ở Khoản 2 Điều 65 NĐ 85/CP thì trường hợp "Nhà thầu chuyển nhượng cho nhà thầu khác trên 10% giá trị phải thực hiện (sau khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) nêu trong hợp đồng đã ký" thì bị coi là chuyển nhượng hợp đồng, là vi phạm Điều 12 Luật đấu thầu và bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu từ 1 năm đến 3 năm. Do vậy, đôi khi do sơ ý không đăng ký thầu phụ trong hợp đồng thì có thể dẫn đến nhà thầu bị quy kết chuyển nhượng hợp đồng Và bị xử phạt như vừa đế cập. Còn quan hệ giữa công ty C (nhà thầu phụ) với các nhà thầu phụ còn lại (công ty A và B) là vấn đề nội bộ giữa các nhà thầu phụ hoặc giữa các nhà thầu phụ và nhà thầu chính. Việc đăng ký chi tiết về việc phân giao giữa các nhà thầu phụ như đã đề cập là cần thiết đề chứng minh tính khả thi trong thực hiện hợp đồng. 
    Đối với trường hợp 2 Như đề cập trong điểm 1    nêu trên, Tổng công ty dự  thầu với tư cách là nhà thầu chính thì Tổng công ty phải ký hợp đồng với chủ đầu tư. Trường hợp đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của Tổng công ty không ký được vì một lý do nào đó thì phải có "Giấy ủy quyền" cho cấp phó, cấp dưới, Giám đốc chi nhánh người đứng đầu văn phòng đại diện ký thay. Mẫu giấy ủy quyền  thường là Mẫu số 2 trong HSMT và cần được nhà thầu tuân thủ khi sử dụng. 
    Trở lại anh huống nêu ra thấy rằng công ty C (Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp) là một pháp nhân độc lập với Tổng công ty (nhà thầu chính) do đó việc ủy quyền của Tổng công ty cho công ty C là không phù hợp với nội dung ủy quyền trong HSMT. Theo quy định về đấu thầu việc chuyển trách nhiệm thực hiện hợp đồng từ pháp nhân (Tổng công ty - nhà thầu chính) sang một pháp nhân khác (công ty con C - công ty cố phần) được coi là chuyển nhượng hợp đồng và bị xử lý như đã đề cập ở trên. Việc chủ đầu tư ký hợp đồng với công ty con C cũng là không hợp lệ, là vô nghĩa vì công ty C không tham gia đấu thầu. Do vậy, việc công ty C ký tiếp hợp đồng với các công ty con A và B trong tình huống đã nêu cũng không còn ý nghĩa để xem xét. Như vậy việc thực hiện ký Hợp đồng theo Trường hợp 2 là không phù hợp với quy định hiện hành. Tổng công ty chỉ có thể xem xét thực hiện theo Trường hợp 1 với các nội dung đã nêu trên.

    TS. Nguyễn Việt Hùng   
    (Nguồn Báo Đấu thầu số 70, ngày 8/4/2014)

    Cụ thể vận chuyển đất cấp 3 bằng ô tô tự đổ 5 tấn, cự ly vận chuyển <= 950m và <=700 m 
    Đơn giá trong hợp đồng áp đụng tính theo mã hiệu định mức vận chuyển đất cấp 3, ô tô tự đổ 5 tấn cự ly vận chuyển <= 1000m và <= 700m. 
    Trên thực tế, nhà thầu chỉ vận chuyển ở cự ly 510m (với cự ly trong hợp đồng là <= 950m) và 175m (với cự ly hợp đồng là <= 700m).
    Vậy có được áp dụng định mức ở cự ly 300m tính cho cự ly vận chuyển 175m và định mức 700m tính cho cự ly vận chuyển 510m để thanh toán cho nhà thầu không? Nếu không được áp dụng định mức trên để thanh toán thì việc tính toán thanh toán cho nhà thầu như thế nào? 
    Sau khi điều chỉnh lại đơn giá thanh toán, chúng tôi có phải làm tờ trình trình chủ đầu tư xin điều chỉnh lại đơn giá thanh toán và giá gói thầu hay không?
    Chúng tôi rất mong sớm nhận được ý kiến trả lời của Quý Viện để có cơ sở áp dụng thanh toán cho nhà thấu.
    Ý kiến trả lời của Quý Viện xin vui lòng chuyển cho chúng tôi theo số Fax sau: 0240 3853 983 hoặc 0240 3824 208. 
    Xin trân trọng cảm ơn.
    Trả lời
    Nguyễn Quang Dũng - Sở Xây dưng Bắc Giang - quangdung@gmail.com - 12/07/2018

    Viện Kinh tế xây dựng có ý kiến như sau:
    Theo ý kiến của quý Ban, hợp đồng vận chuyển đất đã được ký kết là hình thức giá hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh. Vì vậy, khi cự ly vận chuyển đất thay đổi trực tiếp tác động đến đơn giá vận chuyển đã thống nhất trong hợp đồng và đã được các bên có liên quan xác nhận thì việc điều chỉnh lại đơn giá vận chuyển trên cơ sở định mức dự toán vận chuyển đất trong phạm vi <= 300m và <= 700m như ý kiến của Ban quản lý dự án là phù hợp với quy định hiện hành về hợp đồng trong hoạt động xây dựng. Chủ thể ký kết hợp đồng là chủ đầu tư và nhà thầu xây dựng, việc điều chỉnh đơn giá hợp đồng và các thoả thuận đã thống nhất trong hợp đồng là trách nhiệm của chủ đầu tư.
    Trên đây là ý kiến của Viện Kinh tế xây dựng, đề nghị quý Ban nghiên cứu triển khai cho phù hợp theo quy định.

    Đơn vị chúng tôi đã ký hợp đồng với Ban QLDA công trình trung tâm giao dịch và điều hành viễn thông quốc gia hợp đồng số 04/2006/HĐKT/BQL ngày 07/09/2006 về việc giao nhận thầu Xây lắp Trung tâm điều hành khai thác và phát triển các dịch vụ tin học - viễn thông - VNPT. Đơn vị chúng tôi đã triển khai thi công bắt đầu từ ngày 07/09/2006 và hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng tháng 11/2009, đây là loại hợp đồng trọn gói, như vậy Đơn vị chúng tôi áp dụng bù giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu xây dựng  theo thông tư 09/2008/ TT-BXD từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2008 có đúng không?
    Sau khi có Nghị định số 99/2007/NĐ-CP và Thông tư 09/2008/TT-BXD, Chủ đầu tư đã ra văn bản yêu cầu Nhà thầu chỉ được áp dụng bù giá nguyên liệu/nhiên liệu và vật liệu Xây dựng từ ngày 21/07/2007 tức là từ ngày Nghị định 99/2007/NĐ-CP có hiệu lực, như vậy văn bản mà Chủ đầu tư ban hành có đúng không?
    Rất mong nhận được văn bản hướng dẫn sớm của Quý Viện.
    Trả lời
    Công ty CPĐT&XD số 4 - Tổng công ty xây dựng Ha - ctyxd4@gmai.com - 12/07/2018
    Viện Kinh tế xây dựng - Bộ Xây dựng đã nhận được công văn số 1102/CV-XD4 ngày 13/9/2010 của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số 4 về việc áp dụng Thông tư số 09/2008/TT -BXD ngày 17/4/2008 của Bộ Xây dựng. Sau khi nghiên cứu Viện Kinh tế xây dựng có ý kiến như sau:

    Hợp đồng ký kết giữa Ban quản lý dự án công trình trung tâm giao dịch và điều hành viễn thông quốc gia với Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số 4 là loại hợp đồng trọn gói nên được điều chỉnh giá hợp đồng theo hướng dẫn của Thông tư số 09/2008/TT-BXD. Việc điều chỉnh giá vật liệu xây dựng được tính cho khối lượng thi công xây lắp từ năm 2007 và tổng hợp dự toán chi phí xây dựng bổ sung như phụ lục kèm theo Thông tư số 09 nói trên. 
    Trên đây là một số ý kiến của Viện Kinh tế xây dựng hướng dẫn áp dụng Thông tư số 09/2008/TT-BXD. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị quý Công ty phản ánh về Viện Kinh tế xây dựng để cùng nghiên cứu giải quyết.

    Báo Đấu thầu số 155 ra ngày  05/8/2010 đã đề cập một số tình huống trong đấu thầu, bài viết sau đây tiếp tục cung cấp tới bạn đọc một vài tình huống và cách áp dụng pháp luật đấu thầu dùng các trường hợp này.
    Xem xét tính hợp lệ của bảo đảm dự thầu 
    Công ty X tố chức đấu  thầu gói thầu xây lắp, hồ sơ mời thầu (HSMT) quy định: Thời gian có hiệu lực bảo đảm dự thầu (BĐDT) là 150 ngày kế từ thời điểm đóng thầu Thời điểm đóng thầu quy đinh trong HSMT là 14h ngày 07/12/2009. Trong khi đó bảo lãnh dự thầu (BLDT) do ngân hàng phát hành của nhà thầu A lại ghi: hiệu lực của BĐDT là 150 ngày kể từ 14h ngày 07/12/2009 đến hết ngày 05/5/2010". Tổ chuyên gia đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) cho rằng, tới 14h ngày 06/5/2010, BLDT của nhà thầu A mới đạt 150 ngày nên BLDT nêu trên không hợp lệ do có thời gian hiệu lực ngắn hơn quy định. 
    Câu hỏi 1: Đánh giá của tổ chuyên gia có phù hợp với quy đinh của pháp luật đầu thầu hay không?

    Câu hỏi 2: Trường hợp chủ đầu tư tạm ứng  cho nhà thầu sau khi lý hợp đồng với nhà thầu trúng chỉ định thầu có trái quy định hay không?

    Câu hỏi 3: Tổng Công ty X giao cho Công ty X1 thực hiện các gói thầu thuộc dự án A thì có được coi là áp dụng hình thức tự thực hiện hay không?

    Trả lời
    Tình huống đấu thầu - tinhhuong1@gmail.com - 12/07/2018

    Trả lời câu hỏi 1: Theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Nghị định 85/2009/NĐ-CP, thời gian có hiệu lực của BĐDT là số ngày được tính từ ngày đóng thầu Tính từ thời điểm đóng thầu  đến 24h của ngày đó), đến 24h của ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định của HSMT : Đối với trường hợp của bên mời thầu X, thời gian có hiệu lực của BĐDT trong HSMT chỉ quy định số ngày và quy định cụ thể ngày bắt đầu mà không quy định cụ thể ngày kết thúc hiệu lực, vì vậy cần áp dụng quy định vừa nên để tính ngày cuối cùng có hiệu lực của BĐDT. Theo đó, từ thời điểm đóng thầu là : 14h ngày 07/12/2009 đến hết 24h ngày 07/12/2009, BĐDT được tính là có hiệu lực 01 ngày. Do vậy, đến hết 24h ngày 05/5/2010 thì BĐDT đủ hiệu lực 150 ngày. Khi tham gia đấu thầu, nhà thầu A đã thực hiện biện pháp BĐDT là thư bảo lãnh của ngân Hàng, thư bảo lãnh nêu trên có    hiệu lực từ 14h ngày 07/12/2009 (là ngày đóng thầu  theo quy định trong HSMT) đến hết ngày 05/5/2010 (ngày cuối cùng BĐDT cần có hiệu lực theo cách tính nêu trên). Như vậy, BLDT của nhà thầu A là hợp lệ do có hiệu lực đảm bảo theo đúng quy định (giả thiết các yêu cầu khác của BĐDT đều đảm bảo). Hiểu đúng cụm từ “ ứng vốn” trong qui định về chỉ định thầu Điểm c khoản 3 Điều 40 Nghị định 85/2009/NĐ-CP quy định một trong các điều kiện áp dụng chỉ định thầu là: đã được bố trí vốn theo yêu cầu tiến độ thực hiện gói thầu. Không quy định nhà thầu ứng vốn để thực hiện gói thầu là điều kiện để chì định thầu.   

    Trả lời câu hỏi 2 : Quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 Nghị định 85/2009/NĐ-CP được hiểu là một  trong các điều kiện để gói thầu áp dụng chỉ định thầu là phải được bố trí vốn theo tiến độ thực hiện của gói thầu chủ đầu tư không được đưa ra yêu cầu nhà thầu ứng vốn để thực hiện gói thầu là điều kện để được đề nghị chỉ định thầu. Điều này không liên quan đến việc chủ đầu tư tạm ứng cho nhà  thầu được chỉ định thầu một khoản tiền để thực hiện gói thầu:  Tuy nhiên, trường hợp tạm ứng cho nhà thầu thì chủ đầu tư cần quy định rõ giá trị, thời hạn tạm ứng và cách thức hoàn trả tiền tạm ứng phù hợp với quy định của pháp luật trong hồ sơ yêu cầu (HSYC) chỉ định thầu. Trong trường hợp cần thiết, chủ đầu tư có thể yêu cầu nhà thầu nêu trên nộp bảo lãnh tiền tạm ứng để đảm bảo khoản tiền tạm ứng được sử dụng đúng mục đích. Mẫu bảo lãnh tiền tạm ứng được quy định trong các mẫu HSMT ban hành kèm theo các thông tư: số 01/2010/TT- BKH, số 02/2010/TT-BKH, số 05/2010/TT-BKH, số 06/2010/TT-BKH và mẫu HSYC chỉ định thầu xây lắp. ban hành  kèm theo Thông tư  số 04/2010/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Công ty me giao cho công ty con thực hiện, có xem là tự thực hiện Tổng Công ty X là chủ đầu tư dự án A thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu. Công ty Xi là công ty con của Tổng công ty X có chức năng, ngành nghề kinh doanh phù hợp với một số gói thầu thuộc dự án A. 

    Trả lời câu hỏi 3: Điều 23 Luật Đấu thầu và Điều 44 Nghị định 85/2009/NĐ-CP quy định về hình thức tự thực hiện. Theo đó tự thực hiện được áp dụng trong trường hợp chủ đầu tư là nhà thầu có đủ năng  lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thuộc dự án do mình quản lý và sử dụng, tư vấn giám sát việc thực hiện gói thầu phải độc lập với chủ đầu tư về tổ chức và tài chính. Đối với câu hỏi nêu trên,  hai trường hợp sau cần phân biệt: Trường hợp thứ nhất là Công ty Xl là đơn vị phụ thuộc của Tổng Công ty X, không đảm bảo tư cách hợp lệ của một nhà thầu theo quy định tại Điều 7 Luật Đấu thầu, do đó, việc Tổng Công ty X giao cho công ty Xl thực hiện gói thầu thuộc dự án A được coi là áp dụng hình thức tự thực hiện. Khi áp dụng hình_ thức tư thực hiện, chủ đầu tư  là Tống Công tỷ X phải đảm bảo đáp ứng năng lực, kinh nghiệm và các điều kiện khác quy định tại Điều 44 Nghị định 85/2009/NĐ-CP. Trường hợp thứ hai là Công ty X1 là pháp nhân độc. lập đảm bảo tư cách hợp lệ của một nhà thầu theo quy định tại Điều 7 của Luật Đấu thầu, do đó, Tổng Công ty X không được lựa chọn công ty Xl để thực hiện gói thầu dưới hình thức tự thực hiện mà phải tiến hành lựa chọn nhà thầu theo quy định.  Ngoài ra, cần lưu ý rằng, theo quy định tại khoản 2 Điếu 2 Luật Sửa đổi và khoản 2 Điều 3 Nghị định 85/2009/NĐ-CP, khi chủ đầu tư công ty mẹ nắm giữ trên 50% vốn của công ty con thì công ty con không được tham gia đấu thầu các gói thầu của công ty mẹ do không đáp ứng quy định về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu.  

    Tôi đang công tác tại Đà Nẵng trong quá trình tham gia thực hiện quản lý đầu tư XDCT có vướng mắc về định mức vật tư và định mức dự toán XDCT cụ thể :
    Tại chương X – Định mức vật tư kèm CV 1784/BXD-VP ngày 16/8/2007 của Bộ Xây dựng đối với công tác làm cát bằng tầng lọc mã hiệu 10.030, loại vật liệu cát, số lượng 1.51m3.
    Tại chương X – Định mức dự toán XDCT kèm theo CV 1776/ BXD –VP ngày 16/8/2007 của Bộ Xây dựng với mã hiệu công tác AK.963110 đối với công tác làm tầng lọc, thành phần hao phí cát số lượng 1.31m3
    Hao phí vật liệu cát tại định mức 1784 và định mức 1776 có sai khác (1.51m3 so với 1.31m3) 
    Kính đề nghị Viện Kinh tế xây dựng - Bộ Xây dựng giải đáp giúp

    Trả lời
    Lư Nhất Vũ - thanhnghi2619@gmail.com - 12/07/2018

    Tại chương X- Định. mức vật tư kèm theo công văn số 1784/BXD-VP ngày 16/8/2Q07 có số hiệu là 10.0030 và tại chương X- Định mức dự toán XDCT kèm theo công văn số 1776/BXD-VP ngày 16/08/2007 của Bộ xây dựng có mã hiệu AK.96110 là cùng định mức hao phí cát cho công tác làm tầng lọc. Do có sai sót trong quá trình in ấn công văn số 1784/BXD-VP, nên có sự sai khác hao phí vật liệu cát tại định mức 1784/BXD-VP và 1776/BXD-VP. Hao phí vật liệu cát đúng của công tác này là 1,31 m3.

    - Theo quy định tại QĐ 957/QĐ-BXD ngày 29/9/2009 của Bộ Xây dựng, chi phí lập dự án đầu tư được tính theo phần trăm của tổng giá trị chi phí xây dựng và chi phí thiết bị. Chi phí lập dự án được tính như trên là để phục vụ cho việc lập thuyết minh và thiết kế cơ sở.
    - Theo Điều 7, NĐ 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ, nội dung phần thuyết minh dự án xây dựng công trình có bao gồm đánh giá tác động môi trường. 
    - Theo điểm 3.5, khoản 3 Điều 4 Thông tư 04/2010/TT-BXD ngày 26/5/2010 của Bộ Xây dựng, ngoài chi phí lập dự án còn có chi phí tư vấn lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường.

    Tôi được biết, khi lập một Báo cáo đánh giá tác động môi trường của bất kỳ dự án nào các đơn vị Tư vấn cũng cần phải:
    1/ Ngoại nghiệp: khảo sát các yếu tố liên quan đến môi trường tự nhiên, xã hội để có số liệu lập Báo cáo. 
    2/ Nội nghiệp: xử lý số liệu, phân tích, viết báo cáo.

    Vậy kính xin quý Viện cho biết:

    Trong chi phí lập dự án tính theo QĐ 957/BXD đã có chi phí Lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường hay chưa? Nếu có, chi phí này đã bao gồm chi phí nội nghiệp hay ngoại nghiệp?

    Trả lời
    Bùi Nguyên Hải - haievni@gmail.com - 12/07/2018

    Theo quy định tại điều 7 , Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009  của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình thì nội dung phần thuyết minh của dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm đánh giá tác động môi trường.
    Tuy nhiên tùy thuộc vào tính chất, quy mô, phạm vi hoạt động, một số dự án có yêu cầu phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc lập bản cam kết bảo vệ môi trường riêng như: Dự án công trình quan trọng quốc gia, dự án xây dựng mới đô thị, khu dân cư tập trung . . . Danh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (hoặc cam kết bảo vệ môi trường) quy định tại Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dãn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường trong trường hợp này là công việc tư vấn đầu tư xây dựng công trình. Chi phí để thức hiện công việc nổi trên xác định bằng dự toán