Trang thông tin điện tử - Cơ quan chủ quản: Viện Kinh tế Xây dựng - Bộ Xây dựng
Tìm kiếm nâng cao
  • Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động ngành xây dựng

    17/06/2018 - 08:39
    1053
    0
    0
    Theo số liệu của Niên giám thống kê năm 2015 cho thấy năng suất lao động (NSLĐ) của ngành Xây dựng trong 5 năm gần đây tương đối thấp, đang xếp ở vị trí 15 trong 20 ngành kinh tế so sánh. Những nguyên nhân, hạn chế chủ yếu gồm: Trình độ phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ còn thấp; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chưa đổi mới kịp thời; chính sách tiền lương bất cập; thu nhập người lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn thấp, quy mô doanh nghiệp không hợp lý. Một số giải pháp cơ bản cần thực hiện để nâng cao năng suất lao động ngành xây dựng là đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; đổi mới đào tạo phát triển nguồn nhân lực; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế – kỹ thuật của ngành; xây dựng và hoàn thiện quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu theo lĩnh vực, sản phẩm của ngành.

    Viện Kinh tế xây dựng được Bộ Xây dựng giao nhiệm vụ triển khai thực hiện đề tài “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm nâng cao năng suất lao động (NSLĐ) ngành Xây dựng đến năm 2020”. Viện Kinh tế Xây dựng đã chủ trì, phối hợp với Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Tổng cục Thống kê và Viện Năng suất Việt Nam và một số đơn vị khác cùng tham gia thực hiện đề tài. Trong khuôn khổ phạm vi bài viết này, chúng tôi giới thiệu bạn đọc tổng quan một số kết quả nghiên cứu đề tài này như sau:

    Thứ nhất, Tổng quan về năng suất lao động của Việt Nam

    Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu quan trọng trong phân tích kinh tế và thống kê của một quốc gia, được sử dụng đánh giá hiệu quả hoạt động có ích của con người trong một đơn vị thời gian. Ở Việt Nam, theo Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, NSLĐ xã hội là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất làm việc của lao động, được đo bằng giá trị Tổng sản phẩm trong nước tính bình quân một lao động trong một kỳ đánh giá (Năng suất lao động xã hội = Tổng sản phẩm trong nước (GDP)/Tổng số người làm việc bình quân). Nguồn số liệu tính NSLĐ được lấy từ: (i) Số liệu GDP hàng năm; (ii) Số lao động đang làm việc bình quân (số lao động có việc làm). Cả hai chỉ tiêu này được thu thập, tính toán theo tiêu chuẩn quốc tế, trong đó chỉ tiêu GDP được Tổng cục Thống kê áp dụng các khái niệm, nguyên tắc, nguồn thông tin và phương pháp tính theo đúng quy định trong hệ thống tài khoản quốc gia của Liên Hiệp Quốc; chỉ tiêu lao động đang làm việc (lao động có việc làm) được tính theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).

    Chỉ tiêu NSLĐ thường được phân tổ theo ngành kinh tế, với nước ta hiện nay là 20 ngành hoặc khu vực kinh tế và loại hình kinh tế. Năng suất lao động của một ngành được biểu hiện bằng tổng giá trị gia tăng của ngành trên tổng số lao động làm việc trong ngành tính toán trong một kỳ đánh giá, thường tính trong một năm dương lịch. Giá trị gia tăng của ngành là một chỉ tiêu tổng hợp, được tính toán trên cơ sở toàn bộ giá trị sản phẩm, dịch vụ của ngành đóng góp vào GDP của cả nước sau khi loại trừ phần giá trị đã sử dụng hết trong quá trình tạo ra các sản phẩm, dịch vụ. Số lao động làm việc của ngành là toàn bộ lao động trực tiếp, gián tiếp từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh thuộc ngành. Đối với cấp độ doanh nghiệp thì NSLĐ được tính bằng tổng giá trị gia tăng trong năm của doanh nghiệp chia cho tổng số lao động có việc làm trong năm của doanh nghiệp.

    Theo quy định hiện hành tại Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn tại Quyết định số 337/2007/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năng suất lao động của ngành Xây dựng được công bố trên Niên giám Thống kê chỉ giới hạn tính cho lĩnh vực thi công xây dựng, cung ứng, lắp đặt thiết bị công trình để cải tạo, sửa chữa, xây mới các loại công trình xây dựng chuyên ngành dân dụng, giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạ tầng kỹ thuật, an ninh và quốc phòng. Số lao động làm việc của ngành Xây dựng là toàn bộ lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh tham gia vào các hoạt động nêu trên.

    Tăng năng suất lao động là “sự tăng lên của sức sản xuất”, được hiểu là sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn. Nâng cao năng suất lao động có thể đạt được thông qua tái cơ cấu hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh, tái cơ cấu của ngành, doanh nghiệp.

    Năng suất lao động của Việt Nam hiện đang ở mức thấp so với các nước trong khu vực, tốc độ tăng năng suất lao động các năm gần đây chưa cao, còn nhiều khó khăn, thách thức phải vượt qua để bắt kịp năng suất lao động của các nước trong khu vực. Theo đánh giá từ Báo cáo Năng suất lao động Việt Nam, tác giả Nguyễn Tú Anh, năm 2016 [4], tính chung giai đoạn 1992-2014, NSLĐ tính theo sức mua tương đương năm 2011 của Việt Nam tăng trung bình 4,64%/năm (Để so sánh được NSLĐ giữa các quốc gia đòi hỏi phải sử dụng số liệu về GDP theo sức mua tương đương (PPP). GDP theo PPP của Việt Nam và các nước trong báo cáo được tính theo Đô la Mỹ, giá cố định năm 2011, gọi tắt là PPP 2011). Đây là mức tăng cao nhất trong số các nước ASEAN nhưng vẫn thấp xa so với Trung Quốc trong cùng kỳ (9,07%). Tính chung cả giai đoạn 1992-2014 tốc độ tăng NSLĐ hàng năm của Việt Nam khá ổn định nhưng không thể hiện sự vượt trội so với các nước Đông Á và Đông Nam Á và luôn thấp hơn nhiều so với Trung Quốc.

    Do xuất phát điểm của Việt Nam rất thấp nên đến năm 2014 NSLĐ của Việt Nam còn ở mức rất thấp so với khu vực và châu Á, mới đạt 9.138,6 theo giá USD ngang giá sức mua của năm 2005, tương đương 40,36% của Trung Quốc, 6,41% của Singapore, 13,56% của Hàn Quốc, 55,58% của Philippines.

    Thứ hai, Đóng góp của ngành Xây dựng đối với nền kinh tế

    Ngành Xây dựng là một bộ phận quan trọng tạo ra nhiều tài sản vật chất phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân trong các giai đoạn phát triển. Những năm gần đây toàn ngành đã thi công xây dựng và hoàn thành nhiều công trình có quy mô lớn, công nghệ thi công phức tạp. Những năm gần đây, tỷ trọng của ngành Xây dựng đóng góp vào tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng, đồng thời đã thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động, nguồn vốn đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế xã hội của các vùng và quốc gia. Theo Niên giám thống kê năm 2015 [1], tỷ trọng đóng góp của ngành Xây dựng trong GPD toàn quốc, tính theo giá hiện hành, của giai đoạn 2011-2015 tương ứng là: 6,15% – 5,38% – 5,13% – 5,11% – 5,44%; vốn đầu tư xã hội vào ngành Xây dựng trong năm 2015 là 113.478 tỷ đồng tương ứng khoảng 8,3% tổng vốn đầu tư xã hội; chỉ số phát triển tổng sản phẩm của toàn ngành Xây dựng trong giai đoạn 2011-2015 bình quân tăng khoảng 2,5%/năm, đặc biệt trong đó năm 2015 tăng vượt trội so với 2014 khoảng 4%. Năm 2015 ngành Xây dựng đã thu hút 3.431.000 người lao động trong tổng số 52.840.000 lao động cả nước (ước khoảng 14% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp của cả nước). Nguồn nhân lực ngành Xây dựng đã có bước phát triển lớn cả về số lượng lẫn chất lượng, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của ngành.

    Thứ ba, Thực trạng năng suất lao động ngành Xây dựng

    a) Năng suất lao động của lĩnh vực xây lắp thuộc ngành Xây dựng còn thấp so với các ngành kinh tế khác

    Số liệu của Niên giám thống kê năm 2015 [1] (là số liệu thống kê được công bố chính thức và gần nhất tới thời điểm hiện tại) phản ánh NSLĐ lĩnh vực xây lắp trong ngành Xây dựng trong 5 năm gần đây như Bảng 1.

    Bảng 1. Năng suất lao động xã hội theo giá hiện hành của các ngành kinh tế
     

     TT  Ngành kinh tế  Năng suất lao động xã hội phân theo ngành kinh tế (ĐVT: Triệu đồng/người)
    2010 2012 2013 2014 Sơ bộ 2015
      Giá trị của ngành Xây dựng 42,7 53,4 55,6 60,7 66,5
      Giá trị của ngành có giá trị cao nhất 1.300 1.298,6 1.474,3 1683,3 1.695,6
      Giá trị của ngành có giá trị thấp nhất 15 25,4 26,4 28,6 30,6
                 
      Giá trị bình quân của tất cả các ngành 44,0 63,1 68,7 74,7 79,4
                 
    1 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 16,3 25,6 26,4 28,6 30,6
    2 Khai khoáng 742,2 1298,6 1474,3 1.683,3 1.695,6
    3 Công nghiệp chế biến, chế tạo 42,0 60,7 65,8 70,0 71,0
    4 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 504,8 751,3 862,2 1.024,7 1.146,6
    5 Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 94,6 141,8 164,4 179,0 179,9
    6 Xây dựng 42,7 53,4 55,6 60,7 66,5
    7 Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 31,1 47,4 51,7 58,3 63,4
    8 Vận tải, kho bãi 43,8 62,2 67,0 73,2 71,9
    9 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 45,5 55,3 60,7 64,2 63,7
    10 Thông tin và truyền thông 77,3 80,3 82,8 84,9 87,0
    11 Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 457,8 547,7 581,9 588,2 631,1
    12 Hoạt động kinh doanh bất động sản 1.300 1.204,8 1.263,6 1.278,6 1.284,7
    13 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 128,8 166,5 190,2 204,2 220,7
    14 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 42,5 51,3 55,0 56,3 56,6
    15 Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị – xã hội; quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng; đảm bảo xã hội bắt buộc 35,2 51,9 57,9 62,5 66,9
    16 Giáo dục và đào tạo 30,0 47,6 58,0 64,9 72,1
    17 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 53,4 69,2 119,5 134,4 133,8
    18 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 62,8 73 78,1 80,7 84,6
    19 Hoạt động dịch vụ khác 50,0 68,5 76,9 85,6 90,0
    20 Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình 15,0 25,4 28,7,0 32,9 35,9
    Nguồn: Niên giám thống kê 2015

     Tư số liệu bảng 1 cho thấy NSLĐ ngành Xây dựng tương đối thấp, có năng suất lao động bình quân năm trong giai đoạn 2010 – 2015 là 42,7 – 53,4 – 55,6 – 60,7 – 66,5 triệu đồng/người và đang xếp ở vị trí 15 trong 20 ngành so sánh. Tuy nhiên, trong vòng 5 năm gần nhất, mức tăng NSLĐ đã có chuyển biến tích cực, tốc độ tăng bình quân xấp xỉ 10% /năm. Xét theo các yếu tố cấu thành nội hàm giá trị năng suất lao động thì có hai nguyên nhân cơ bản dẫn tới năng suất lao động của ngành Xây dựng còn thấp là tổng giá trị gia tăng của toàn ngành không cao trong khi thu hút số lượng lớn lao động có việc làm, nhưng chất lượng lao động thấp.

    b) Năng suất lao động của lĩnh vực khác do ngành Xây dựng quản lý cũng chưa cao

    Với cách tính hiện hành thì năng suất lao động được thống kê, công bố chưa phản ánh hết thực trạng năng suất lao động của tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do ngành Xây dựng quản lý như sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí xây dựng, tư vấn xây dựng. Các lĩnh vực này hiện đang được tính là thành phần trong các ngành như: Công nghiệp chế biến, chế tạo; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ…. Từ kết quả khảo sát, đánh giá số lượng lớn doanh nghiệp của các lĩnh vực này trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2015, cho thấy năng suất lao động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do ngành Xây dựng cũng còn tương đối thấp. Trong đó lĩnh vực cơ khí xây dựng và xây dựng có năng suất thấp so với lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và tư vấn xây dựng. Mức tăng năng suất lao động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh được khảo sát qua các năm là không cao và không ổn định. Tổng hợp kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu đề tài [3], nêu ra tại bảng 2.
    Bảng 2. Năng suất lao động khối doanh nghiệp xây dựng phân theo lĩnh vực theo giá hiện hành
    Đơn vị tính: triệu đồng/người
    Lĩnh vực Năm
    2010 2011 2012 2013 2014 2015
    Sản xuất vật liệu XD 38 25 67 56 66 75,9
    Cơ khí xây dựng 39 34 47 52 54 56,7
    Tư vấn xây dựng 113 36 62 58 59 64,9
    Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu đề tài

    c) Tổng hợp kết quả năng suất lao động trong các lĩnh vực của ngành Xây dựng

    Từ kết quả tính toán, xác định ở điểm b và điểm c nêu trên có thể tổng hợp năng suất lao động các lĩnh vực của ngành thể hiện ở bảng 3.
    Bảng 3. Tổng hợp năng suất lao động trong các lĩnh vực của ngành Xây dựng
    Đơn vị tính: triệu đồng/người
    Lĩnh vực Năm
    2010 2011 2012 2013 2014 2015
    Thi công xây dựng 42,7 ——— 53,4 55,6 60,7 66,5
    Sản xuất vật liệu XD 38 25 67 56 66 75,9
    Cơ khí xây dựng 39 34 47 52 54 56,7
    Tư vấn xây dựng 113 36 62 58 59 64,9
    Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê năm 2015 và kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu đề tài

    Từ số liệu Bảng 3 nêu trên cho thấy trong năng suất lao động ngành Xây dựng thì năng suất lao động của lĩnh vực cơ khí xây dựng và thi công xây dựng có năng suất thấp so với lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và tư vấn xây dựng.

    Thứ tư, Các yếu tố đã dẫn đến hạn chế năng suất lao động của ngành Xây dựng

    Tương tự như các ngành kinh tế khác, năng suất lao động của ngành Xây dựng còn thấp chủ yếu do những nguyên nhân: Trình độ phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ còn thấp; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chưa đổi mới kịp thời; Chính sách tiền lương bất cập, thu nhập người lao động chưa phù hợp; Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn thấp, quy mô doanh nghiệp không hợp lý…

    a) Về phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ của ngành Xây dựng

    – Lĩnh vực xây lắp: Mức độ công nghiệp hóa trong xây dựng công trình nhà ở cao tầng; làm chủ các công nghệ xây dựng công trình ven biển và ngoài khơi; công nghệ xây dựng các công trình công nghiệp có quy mô lớn, phức tạp, công trình ngầm ở đô thị dạng tuyến, dạng điểm sâu tới 30 m, công nghệ xây dựng trên nền đất yếu, công nghệ tiên tiến trong tổ chức và quản lý thi công xây dựng… còn nhiều hạn chế, ở mức độ trung bình trong khu vực. Các Tổng công ty và Công ty thi công xây lắp đã được xắp xếp lại về tổ chức nhưng còn cồng kềnh, hiệu lực điều hành thấp. Hệ thống quản trị doanh nghiệp, quản lý chất lượng công trình xây dựng chưa được chú trọng đã có tác động không nhỏ đến NSLĐ. Năng suất lao động thi công xây lắp ở nước ta mới chỉ đạt khoảng 51-71% so với năng suất lao động của khu vực.

    – Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng: Chúng ta chưa làm chủ được trong sản xuất các chủng loại vật liệu xây dựng đòi hỏi công nghệ sản xuất tiên tiến như: Xi măng chất lượng cao, kính an toàn trong công trình cao tầng, vật liệu mới có hiệu quả sử dụng và tiết kiệm năng lượng,… công nghệ sản xuất vật liệu ở nước ta còn sử dụng những công nghệ có tiêu tốn nhiều yếu tố đầu vào, công nghệ còn lạc hậu.

    – Lĩnh vực cơ khí xây dựng: Trang thiết bị cơ khí xây dựng nói chung là cũ, lạc hậu; chưa có khả năng về thiết kế, chế tạo các thiết bị chính và thiết kế tổng thể cho cả hệ thống nhà máy công nghiệp như nhiệt điện, dầu khí, hóa chất…, các công trình hạ tầng kỹ thuật phức tạp, kỹ thuật cao. Cho đến nay cả nước có khoảng 3.000 doanh nghiệp cơ khí, thì phần lớn các doanh nghiệp đều thiếu vốn, gặp khó khăn cho nguồn vốn đầu tư phát triển. Phần lớn thiết bị đã qua nhiều năm sử dụng, lạc hậu về tính kỹ thuật, thiếu phụ tùng thay thế nên các doanh nghiệp chỉ dừng lại ở mức là nhà thầu phụ cho các gói thầu thông thường. Việc thiết kế các thiết bị chính và thiết kế tổng thể cho cả hệ thống nhà máy công nghiệp (phần E của gói thầu EPC) thì các doanh nghiệp cơ khí của Việt Nam không có khả năng thực hiện.

    – Lĩnh vực tư vấn xây dựng: Năng lực về khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng, kiểm định chất lượng công trình, quản lý dự án còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với những dự án, công trình xây dựng phức tạp, chưa áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quá trình thực hiện và quản lý. Nhiều dự án được lập trong thời gian qua chủ yếu đối phó với thủ tục đầu tư xây dựng, các phân tích tài chính tuy có lập nhưng chưa đủ độ tin cậy, tính khả thi kinh tế-kỹ thuật không cao. Chưa áp dụng nhiều về thiết kế sử dụng theo phương pháp mô hình, ứng dụng thông tin công trình. Chưa hình thành được mối quan hệ hợp tác, chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ giữa tư vấn với các đơn vị nghiên cứu, các trường đại học, các doanh nghiệp. Trang thiết bị trong công tác khảo sát xây dựng còn chậm đổi mới, phần lớn vẫn là thiết bị cũ với công nghệ tương ứng.

    – Trang bị tài sản cố định cho lao động của doanh nghiệp ngành Xây dựng ở mức thấp
    Mức trang bị tài sản cố định cho lao động của doanh nghiệp là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. NSLĐ có mối quan hệ chặt chẽ với mức độ trang bị tài sản trên một lao động, tầm quan trọng của mức độ trang bị về tài sản của người lao động được phản ánh qua tỷ lệ tương quan: Nếu tăng 1% giá trị tài sản trên lao động sẽ làm tăng năng suất lao động 0,2% [4]. Theo số liệu thống kê trong 5 năm gần nhất [1] cho thấy, vốn trang bị tài sản cố định tính bình quân cho một lao động trong doanh nghiệp ngành Xây dựng ở mức rất thấp khi so sánh với các ngành khác, thông thường xếp vị trí 15/18 ngành kinh tế được đánh giá so sánh. Mặt khác, về giá trị đang có xu hướng thay đổi không ổn định qua các năm. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng bất lợi tới NSLĐ của doanh nghiệp ngành Xây dựng.

    b) Về Chất lượng lao động và đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng

    – Chất lượng lao động còn nhiều hạn chế, bất cập

    + Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong ngành Xây dựng còn rất thấp

    Tỷ lệ lao động qua đào tạo của ngành Xây dựng, thống kê 5 năm gần nhất [1] còn ở mức rất thấp, không lớn hơn 15%/tổng số lao động của ngành và xếp thứ tự ở vị trí 16/22 ngành so sánh. Đây là một hạn chế rất lớn và ảnh hưởng bất lợi tới việc nâng cao năng suất lao động ngành Xây dựng.

    + Tỷ lệ lao động xây dựng mất cân đối, không đáp ứng yêu cầu thực tế

    Nhìn chung, đội ngũ công nhân, những người trực tiếp lao động tạo ra các sản phẩm vật chất của ngành Xây dựng còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Số lượng lao động có trình độ trung cấp nghề và công nhân kỹ thuật được đào tạo có xu hướng giảm; đội ngũ thợ bậc cao, lành nghề, chuyên biệt tuổi đời ngày càng cao, lại chậm được bổ sung. Tỷ lệ lao động thủ công, lao động nông nhàn chưa qua đào tạo còn nhiều. Mức độ thành thạo, tính chuyên nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp chưa cao. Có khoảng gần 80% công nhân xây dựng hiện nay làm việc có tính thời vụ, chưa được đào tạo bài bản, thiếu chuyên môn và chưa đáp ứng được những yêu cầu về tính chuyên nghiệp trên công trường. Công nhân ngành Xây dựng có trình độ tay nghề chiếm tỷ lệ rất thấp, theo số liệu từ Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011 – 2020 [2] cho thấy: Số lượng công nhân có tay nghề bậc cao ( bậc 5, 6, 7 và vượt khung) chỉ khoảng 16,84%; thợ bậc 1, 2 và lao động phổ thông còn tỉ lệ cao. Tỷ lệ cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng quản lý doanh nghiệp còn rất thấp. Nhiều lĩnh vực còn thiếu người quản lý giỏi như công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, công trình ngầm, quản lý dự án, bất động sản quy mô lớn.

    – Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực xây dựng chưa theo kịp nhu cầu thực tế

    + Về đào tạo đại học: Hiện nay nhiều ngành nghề đã hình thành nhưng vẫn còn thiếu các chuyên ngành mới hoặc đào tạo ít như: công trình ngầm, công trình có yêu cầu đặc biệt, quản lý dự án xây dựng, quản lý xây dựng và đô thị, kinh tế đô thị, kinh tế bất động sản…
    + Về đào tạo trung học chuyên nghiệp, chủ yếu vẫn đào tạo được cán bộ kỹ thuật của các ngành – nghề có tính chất cổ điển chung như xây dựng dân dụng và công nghiệp, thi công cơ giới, cấp – thoát nước, cơ khí xây dựng; không coi trọng việc đào tạo cao đẳng, trung cấp kiến trúc, kinh tế xây dựng, là bậc học trước đây phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu hành nghề tại các đơn vị cơ sở, các khâu trực tiếp công trường, tổ đội xây dựng.
    + Về đào tạo công nhân: Chương trình đào tạo chưa phù hợp dẫn đến việc tuyển sinh đào tạo còn gặp nhiều khó khăn, học viên ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Việc đào tạo các nghề chuyên biệt, thợ bậc cao, kiểm tra sát hạch nghề còn hạn chế. Cơ sở vật chất các trường dạy nghề, đặc biệt là các xưởng thực hành nói chung là yếu kém, lạc hậu, thiết bị nghèo nàn, thô sơ.
    + Về chương trình đào tạo: Đã thường xuyên đổi mới cải tiến theo hướng đa dạng hoá, hiện đại hoá, mềm hoá, tuy nhiên vẫn còn nặng về lý thuyết, ít thời gian thực hành, chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng; chậm cập nhật kiến thức mới, công nghệ mới và những vấn đề phát sinh từ thực tiễn mà người học khi ra trường phải tiếp cận, đảm nhiệm.
    + Về hệ thống cơ chế chính sách: Hệ thống chính sách chưa gắn kết được giữa cung và cầu, giữa đào tạo với sử dụng; chưa tạo dựng được mối quan hệ giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp… Chưa tạo được sự cân đối về quy mô và cơ cấu đào tạo các bậc học, cấp học dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Chưa có các cơ chế chính sách đối với các trường trực thuộc doanh nghiệp, đặc biệt là cơ chế tài chính.

    c) Về chính sách tiền lương, thu nhập người lao động ngành Xây dựng

     Trong vài năm gần đây, chính sách tiền lương của ngành Xây dựng đã có sự đổi mới căn bản; đó là việc quy định các xác định “mức tiền lương đầu vào” của ngành Xây dựng, là cơ sở để xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Theo đó, “mức tiền lương đầu vào” đã cơ bản đáp ứng mặt bằng giá cả nhân công xây dựng trên thị trường tại các vùng miền, khu vực khác nhau. Tuy nhiên, “mức tiền lương đầu vào” chưa thực sự phù hợp với nhu cầu chi phí nhân công của một số công trình có tính chất phức tạp, có yêu cầu kỹ mỹ thuật cao. Một số khoản phụ cấp tiền lương cho người lao động tại một số vùng khó khăn, điều kiện thi công xây dựng đặc thù cũng chưa được tính đúng, tính đủ. Việc điều chỉnh “mức tiền lương đầu vào” còn chậm, chưa theo kịp diễn biến của thị trường nhân công xây dựng. Mặt khác, “mức tiền lương đầu vào” của ngành Xây dựng còn phụ thuộc, chịu sự chi phối của cơ chế tiền lương vùng; trong khi mức tiền lương tối thiểu cùng còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người lao động (theo số liệu tính toán lương tối thiểu vùng năm 2015 chỉ đáp ứng được 62% đến 69% nhu cầu tối thiểu của người lao động theo từng vùng). Việc chi trả tiền lương cho người lao động tại các doanh nghiệp xây dựng còn bất cập, chưa thực sự gắn với NSLĐ, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thu nhập bình quân tháng trong các doanh nghiêp của ngành Xây dựng theo Niên giám thống kê trong 5 năm gần đây [1] là rất thấp so với các ngành khác (thông thường xếp theo thứ tự ở vị trí 14/18 ngành so sánh). Bình quân mức độ tăng thu nhập hàng năm của người lao động ngành Xây dựng xấp xỉ 10%/năm. Với mức thu nhập người lao động ngành Xây dựng còn thấp, là cản trở rất lớn tới động lực tăng năng suất của người lao động ngành Xây dựng.

    d) Về hiệu quả sản xuất kinh doanh và quy mô của doanh nghiệp xây dựng

    – Tỷ suất lợi nhuận hàng năm (Lợi nhuận trước thuế/Doanh thu thuần) còn nhiều hạn chế

    Một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tỷ suất lợi nhuận bình quân năm. Theo kết quả thống kê, tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp ngành Xây dựng ở mức rất thấp so với các ngành khác. Thống kê 5 năm gần đây đã chỉ ra [1], chỉ tiêu này của ngành Xây dựng xếp ở vị trí 16/18 ngành so sánh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành Xây dựng trong 5 năm gần đây cũng cho thấy [1], giá trị còn ở mức rất thấp, không quá 3,5%/năm, vì vậy chưa tạo ra sức tăng trưởng tốt, yếu tố này đã phần nào đã ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất và mức tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp ngành Xây dựng.

    – Quy mô của doanh nghiệp Xây dựng chưa hợp lý, ảnh hưởng bất lợi tới năng suất lao động

    Theo kết quả nghiên cứu về năng suất lao động Việt Nam, NSLĐ có mối quan hệ chặt chẽ với mức độ trang bị tài sản trên một lao động. Xu hướng chung là doanh nghiệp càng lớn thì mức độ trang thiết bị trên một lao động càng cao và do đó NSLĐ cũng cao, trừ hai nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 5 lao động) và lớn nhất (trên 1.000 lao động). Kết quả thống kê 5 năm gần đây cho thấy [1]: Phần lớn các doanh nghệp ngành Xây dựng là doanh nghiệp quy mô nhỏ cả về số lao động (số lượng doanh nghiệp có quy mô > 200 người chỉ chiếm khoảng 10%, còn số doanh nghiệp có dưới 10 người chiếm tới khoảng 60% trên tổng số doanh nghiệp của ngành). Mặt khác, số doanh nghiệp có quy mô vốn < 10 tỷ đồng chiếm khoảng 60% trên tổng số doanh nghiệp của ngành. Đó là những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn, dẫn tới năng suất lao động trong các doanh nghiệp ngành Xây dựng thấp, bởi nhiều khó khăn trong đầu tư, phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ, khó đổi mới trình độ tổ chức sản xuất, sức cạnh tranh thấp trong khi thị trường xây dựng ngày càng phát triển theo quy mô các dự án, công trình xây dựng lớn, kỹ thuật phức tạp….

    Thứ năm, Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng suất lao động ngành Xây dựng trong thời gian tới

      Trên cơ sở kết quả đánh giá thực trạng, các tồn tại, hạn chế và các định hướng, mục tiêu nâng cao năng suất lao động ngành Xây dựng tới năm 2020, đề tài đã đề xuất một số giải pháp cơ bản sau.

    a) Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ngành Xây dựng

    – Tái cơ cấu doanh nghiệp ngành Xây dựng theo hướng tập trung các sản phẩm, dịch vụ mũi nhọn có tính chuyên môn hóa, chuyên biệt hóa cao, tạo giá trị gia tăng cao, chú trọng phát triển các hình thức tổng thầu xây dựng. Tiến tới nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng các doanh nghiệp xây dựng có năng lực quản lý tiên tiến để tiếp cận và hội nhập với quốc tế.
    – Tập trung rà soát và tổ chức thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đặc biệt trong các lĩnh vực cơ khí xây dựng, xây lắp; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn để ứng dụng khoa học công nghệ, đầu tư trang thiết bị thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển.
    – Sắp xếp lực lượng lao động hợp lý trong các doanh nghiệp; rà soát, kiểm tra, đánh giá điều kiện năng lực thực tế các tổ chức, các nhân tham gia hoạt động xây dựng hướng tới mục tiêu giảm tỷ lệ số doanh nghiệp xây dựng nhỏ, siêu nhỏ.

    b) Đổi mới đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
    – Rà soát, điều chỉnh và tổ chức thực hiện có hiệu quả Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011 – 2020 [2] đã được phê duyệt tại Quyết định số 838/QĐ-BXD ngày 13 tháng 09 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, với một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
    – Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức ngành Xây dựng theo Quyết định số 1961/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 2010 phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp giai đoạn 2010 – 2015”.
    – Đẩy mạnh đào tạo nâng cao, đào tạo lại, mở rộng các hình thức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Xây dựng (cán bộ công chức, cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân kỹ thuật cao, công nhân…) đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho các công trình trọng điểm, có quy mô lớn, công nghệ phức tạp, đòi hỏi cao về kỹ thuật xây dựng (công trình ngầm, công trình biển, hạ tầng kỹ thuật đô thị,…). Áp dụng chế độ tuyển dụng công khai thông qua thi tuyển.
    – Đẩy mạnh đầu tư; thực hiện xã hội hóa, hoàn thiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng.

    c) Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế

    – Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án trọng điểm của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Xây dựng đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 theo Quyết định số 527/QĐ-BXD ngày 29/05/2013 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
    – Tổ chức thực hiện thành công Đề án áp dụng mô hình thông tin công trình (BIM) trong hoạt động xây dựng và quản lý vận hành công trình theo Quyết định số 2500/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
    – Xây dựng, ban hành cơ chế khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại, tiên tiến trong thi công xây lắp, tư vấn xây dựng, quy hoạch xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng đáp ứng yêu cầu bền vững, thẩm mỹ, hạ giá thành sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng tiết kiệm, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
    – Quản lý, gắn kết chặt chẽ, nâng cao tính ứng dụng các hoạt động khoa học và công nghệ với thực tiễn sản xuất và quản lý của ngành; nghiên cứu, từng bước tiếp thu và làm chủ các công nghệ tiên tiến (công nghệ thi công xây dựng công trình ngầm, các công nghệ sản xuất gạch không nung, công nghệ xử lý chất thải rắn, nước thải, các công trình phức tạp khác…); phát triển, cải tiến, hiện đại hóa các công nghệ trong lĩnh vực cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, các công nghệ truyền thống nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng.
    – Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp, khuyến khích đầu tư đổi mới, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ đối với doanh nghiệp xây dựng.

    d) Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế – kỹ thuật, chính sách tiền lương làm động lực thúc đẩy tăng NSLĐ

    – Tập trung rà soát để hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn và định mức kinh tế – kỹ thuật để tạo điều kiện xác định đúng, đủ chi phí, trong đó có chi phí nhân công trong hoạt động xây dựng đáp ứng yêu cầu thị trường.
    – Xây dựng cơ chế,chính sách tiền lương và các chế độ ưu đãi đối với người lao động ngành Xây dựng phù hợp với điều kiện lao động đặc thù của ngành và phù hợp với đổi mới chung của toàn xã hội.
    – Đổi mới hệ thống thang lương, bảng lương ngành Xây dựng phù hợp với yêu cầu của thị trường.

    e) Thực hiện xây dựng và quản lý hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu từng lĩnh vực và sản phẩm theo hướng công khai, minh bạch

    – Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu toàn ngành bảo đảm tính thống nhất, đủ độ tin cậy. Xây dựng hệ thống thông tin thống kê, dự báo cung – cầu về nhân lực ngành Xây dựng, về vật liệu xây dựng, về nhà ở, thị trường bất động sản… từ trung ương đến địa phương làm cơ sở cho hoạch định chính sách, quản lý thị trường xây dựng, thị trường bất động sản.
    – Thực hiện cung cấp thông tin, quản lý thông tin của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng, thị trường xây dựng, thị trường bất động sản bảo đảm công khai, minh bạch, lành mạnh, chuyên nghiệp.
    – Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, mã hóa, hệ thống phần mềm ứng dụng để quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu chủ yếu của ngành về nguồn lực chung ngành Xây dựng; nguồn nhân lực ngành Xây dựng; các doanh nghiệp ngành Xây dựng (bao gồm cả tư vấn, xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng…); các sản phẩm, sản phẩm khoa học công nghệ, sản phẩm ứng dụng công nghệ mới trong ngành Xây dựng; giá thị trường (vật liệu, nhân công, máy thi công); nhà ở, đất ở, thị trường bất động sản; tiêu chuẩn, quy chuẩn, hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật…).

    Kết luận, Theo quy định của pháp luật về thống kê, các số liệu thống kê phục vụ việc xác định năng suất lao động ngành Xây dựng, nhất là năng suất lao động của từng lĩnh vực trong ngành không được tổ chức ghi chép, theo dõi thường xuyên. Do vậy để tính được năng suất lao động của ngành và của từng lĩnh vực thuộc ngành Xây dựng theo định kỳ đòi hỏi phải có khảo sát, thu thập số liệu bổ sung. Mặt khác, các nghiên cứu kinh tế vĩ mô và thực tiễn đều đã khẳng định, năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) là một chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế. Ngoài tác động của tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào như lao động và vốn, TFP đóng vai trò quan trọng đối với tốc độ tăng GDP. Trong khi tốc độ tăng các yếu tố đầu vào khác là có hạn, TFP có thể là yếu tố vô hạn trong tác động đến tăng trưởng. Tăng TFP có thể phản ánh mức độ đổi mới các quá trình sản xuất, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật mới trong quản lý hoặc cũng có thể phản ánh gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế. Từ các yêu cầu này của thực tế, việc triển khai đánh giá định kỳ hàng năm về năng suất lao động các lĩnh vực và nghiên cứu năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) của ngành Xây dựng để kịp thời cung cấp các thông tin phục vụ yêu cầu chỉ đạo ngành Xây dựng là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
     
    Tác giả bài viết: CVCC. TS. LÊ VĂN CƯ

    VIỆN TRƯỞNG VIỆN KINH TẾ XÂY DỰNG
    TS. LÊ VĂN LONG & ThS. VŨ QUYẾT THẮNG
    VIỆN KINH TẾ XÂY DỰNG, BỘ XÂY DỰNG

    Bình luận